Thứ Năm, 2 tháng 5, 2013

Tiểu thuyết kiếm hiệp và người viết trẻ


Tiểu thuyết kiếm hiệp đã từng bị quan sát với một con mắt khắt khe từ giới phê bình kinh viện. Tuy nhiên, việc Kim Dung được đưa vào danh sách 10 đại tác gia của thế kỷ 20, tác phẩm của ông được đưa vào sách giáo khoa Trung văn đã khiến người ta có cái nhìn bình đẳng hơn về dòng văn học này. Sự chú ý đối với dòng văn học kiếm hiệp được hâm nóng khi bộ tiểu thuyết Tru Tiên phá vỡ mọi kỷ lục phát hành tại Trung Quốc với mức tiền bản quyền kỷ lục cho tác giả Tiêu Đỉnh. Lúc này nhiều nhà phê bình mới thấy sức ảnh hưởng to lớn của dòng văn học kiếm hiệp đến các quốc gia Châu Á khiến người ta rất cần phải lưu ý đến dòng văn học này.

1.Tiểu thuyết kiếm hiệp hồi sinh

Tiểu thuyết kiếm hiệp đã đi qua những quá trình biến động không ngừng. Điều đáng nói, cho dù bị những phán xử bất công, cho dù bị đánh giá thấp kể từ khi manh nha hình thành nhưng tiểu thuyết kiếm hiệp vẫn tồn tại và phát triển như một mạch nước ngầm cuồn cuộn và dữ dội. Nhìn lại, người ta không thể không nể phục trước sức sáng tạo vô tiền khoáng hậu của những danh gia tiểu thuyết kiếm hiệp cũng như những trước tác đồ sộ của dòng văn học này.
Truyện kiếm hiệp có từ bao giờ? Đây là câu hỏi không dễ trả lời. Có người cho rằng tiểu thuyết kiếm hiệp bắt đầu từ những trang viết của Thái Sử Công Tư Mã Thiên (145 TCN – 86 TCN) trong thiên Du Hiệp truyện. Trong đó, Tư Mã Thiên đã ghi lại câu truyện truyền kỳ của những kẻ du hiệp, coi thường pháp luật, dùng cái dũng khí và bản lĩnh nam nhi mà nổi danh thiên hạ. Tuy nhiên những dấu hiệu rõ hơn cho thấy sự manh nha xuất hiện của dòng tiểu thuyết này bắt đầu từ những tích truyện trong văn học dân gian như Võ Tòng đả hổ, Võ Tòng sát tẩu hay như truyện Thất Hiệp Ngũ Nghĩa (khuyết danh) với truyền kỳ về Bao Thanh Thiên và những đồng sự của mình với kiếm pháp vô song của Nam hiệp Triển Chiêu. Đến đầu thể kỷ 20, dòng văn học này bắt đầu định hình mạnh mẽ với sự ra đời của tác phẩm Thục Sơn Kiếm Hiệp của Hoàn Châu Lâu Chủ (1902-1961). Đây là tác phẩm kiếm hiệp đầu tiên được viết theo kiểu feuilleton đăng dài kỳ trên tờ Thiên Phong báo (Thiên Tân). Thục Sơn Kiếm Hiệp là nền tảng để một loạt những tác phẩm đương thời ra đời như Giang Hồ Kỳ Hiệp của Bình Giang Nhất Tiếu Sinh (1890 - 1957), “Kỳ Hiệp Tinh Trung truyện” của Triệu Hoán Đình (1877 - 1951), “Thập Nhị Kim Tiền Tiêu” của Bạch Vũ (1901 - 1966) v.v.. Tuy nhiên, điểm yếu của Hoàn Châu Lâu Chủ cũng như điểm yếu của khá nhiều tác gia kiếm hiệp sau này là câu chuyện ban đầu quá rộng lớn, thành ra nhân vật tản mát, tác giả viết bút lực càng ngày càng cạn kiệt dần khiến độc giả ban đầu còn thích thú, càng về sau càng cảm thấy chán nản.

2.Võ lâm Minh chủ Kim Dung

Tiểu thuyết kiếm hiệp được nâng lên một tầm cao mới với sự xuất hiện của Lương Vũ Sinh (1926 - 2009) với danh hiệu: “Tân kiếm hiệp tị tổ" (thủy tổ của tân kiếm hiệp). Ông một tác gia lớn của dòng văn học kiếm hiệp với khối lượng tác phẩm cực kỳ đồ sộ. Nhà nghiên cứu Trần Mặc trong tác phẩm Kiếm hiệp Ngũ đại gia đã bình luận: “Ông (Lương Vũ Sinh) chẳng những viết tiểu thuyết kiếm hiệp trước Kim Dung mà kết thúc cũng muộn hơn. Thời gian sáng tác của tiểu thuyết của ông gấp đôi Kim Dung, số lượng của ông thì hơn gấp đôi, gồm 35 bộ trường thiên tiểu thuyết. So ra Lương Vũ Sinh thuần tuý, chuyên nghiệp hơn (Kim Dung) nhiều”. Trong số những tác phẩm của ông, không thể không nói đến tác phẩm được liệt vào hàng kinh điển như Bạch phát ma nữ truyện, Thất kiếm hạ Thiên Sơn v.v… Sở dĩ nói Lương Vũ Sinh là một trong những cột mốc lớn trước Kim Dung là vì ông đã mang được cái thẩm mỹ thần tình của mình vào những trang viết, kết hợp mạnh mẽ lịch sử và trí tưởng tượng cực kỳ phong phú cùng với kiến văn quảng bác của mình để tạo nên những viên ngọc quý trong kho tàng tiểu thuyết kiếm hiệp. Tự đánh giá về những đóng góp của mình với dòng văn học kiếm hiệp, Lương Vũ Sinh đã nói: “Khai phong khí giả Lương Vũ Sinh; phát dương quang đại giả Kim Dung” (người khai sinh mở mang là Lương Vũ Sinh; kẻ phát huy rực rỡ là Kim Dung), đây có thể được coi là một câu tổng kết chuẩn xác về tầm khai phá của ông trong lĩnh vực tiểu thuyết kiếm hiệp.

Người đưa văn học kiếm hiệp lên đến đỉnh cao là Kim Dung. Sở dĩ nói Kim Dung là một cột mốc lớn bậc nhất trong lịch sử tiểu thuyết kiếm hiệp bởi ông là người có công nâng tiểu thuyết kiếm hiệp từ bị thế từng bị coi là dòng văn học thông tục giờ đàng hoàng trở thành dòng văn học chính danh. Những tác phẩm của ông đã được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa, ngang hàng với những tác phẩm văn học cổ điển của những tác gia lớn nhất Trung Quốc như Ba Kim, Lỗ Tấn, Lão Xá… Nhiều người đọc say mê nghiên cứu tác phẩm của ông, từ đó thêm hiểu biết về lịch sử Trung Quốc, về nghệ thuật ẩm thực, nghệ thuật thư pháp v.v… Thậm chí còn có cả một ngành chuyên nghiên cứu về những tác phẩm của ông được gọi là Kim học (Jinology). Điểm khiến Kim Dung vượt trội so với những bậc tiền bối và cả những hậu nhân sau này là ông có sở học mạnh mẽ, kiến thức uyên thâm, lại thêm văn tài xuất chúng và trí tưởng tượng cực kỳ phong phú. Các tác phẩm của ông có nền tảng câu chuyện rất vững vàng, tình tiết câu truyện rành mạch, biết cách dồn nén để bung ra những nút thắt câu truyện vào phút tối hậu khiến người đọc tuyệt thú. Một điểm nữa cũng không thể không kể đến là Kim Dung tự biết lượng sức mình. Sau khi viết xong bộ truyện đồ sộ Lộc Đỉnh Ký, ông đã biết dừng lại và biên tập, chỉnh sửa những tác phẩm của mình. Sở dĩ nói đây là việc làm cực kỳ quan trọng bởi vì quá trình viết truyện kiếm hiệp của phần lớn tác gia kiếm hiệp thường bị đặt vào tình huống truyện dài kỳ với sự thúc ép của các tòa soạn báo và độc giả. Thành ra các tác giả phải liên tục ra đời những chương hồi mới, tình tiết mới và không khỏi bỏ quên nhiều nhân vật, sai sót trong nhiều tình huống khiến người đọc thắc mắc không thôi. Bản thân Kim Dung cũng mắc những lỗi tương tự nhưng ông tự biết ngồi lại và chỉnh sửa tình tiết văn từ khiến những tác phẩm của mình được nâng lên một bậc và sau này văn chương càng mỹ lệ, tình tiết càng lay động, bố cục càng chặt chẽ khiến ông trở thành một cây đại thụ, một “Minh Chủ võ lâm” của dòng văn học kiếm hiệp.

3.Người khai phá Cổ Long

Sau khi Kim Dung phong bút, dường như tiểu thuyết kiếm hiệp chịu nhiều tổn thất. Điểm lớn nhất là những tinh hoa của văn học kiếm hiệp cổ điển, dường như Kim Dung đã thâu tóm hết, hoàn thiện hóa và đưa vào những tác phẩm của mình. Những tác phẩm và uy danh của ông trở nên quá lớn khiến nhiều nhà văn không thể vượt qua cái bóng của bậc tiền bối. Tiểu thuyết kiếm hiệp đi vào lối mòn, cần tìm ra những lối đi mới. May mà có sự xuất hiện của Cổ Long (1937–1985).

Nhắc đến Cổ Long, người ta thường so sánh với Kim Dung. Kim Cổ đều là hai ngọn cô phong cao nhất của dòng văn học kiếm hiệp. Có điều so sánh giữa Cổ Long và Kim Dung là điều rất khó bởi Cổ Long đi theo một hướng đi rất khác. Bản thân Cổ Long đã nhận định về Kim Dung: “Ảnh hưởng của ông trên cả một thời đại của thiểu thuyết kiếm hiệp trong vòng tám mươi năm nay không ai có thể bì kịp. Bất kỳ tác phẩm của ai không ít thì nhiều cũng đều chịu ảnh hưởng của ông”. Tuy nhiên vì nhận thức được một cách sâu sắc rằng mình không có sở học nền tảng vững mạnh như Kim Dung, Cổ Long đặt yêu cầu cho mình phải viết khác biệt so với bậc tiền bối: “Phong cách tiểu thuyết của Kim Dung đã sáng tạo ra có thể hấp dẫn nhiều độc giả, tuy nhiên tiểu thuyết kiếm hiệp cũng đã đến giai đoạn cần phải canh tân, cần biết hóa”.

Chính quan điểm này đã tạo ra một hướng đi mới mẻ cho văn học kiếm hiệp với dấu mốc của Cổ Long. Phong cách câu chữ của Cổ Long ngắn gọn, ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn học châu Âu, khác hẳn với kiểu văn bạch thoại được sử dụng nhiều trong những tác phẩm kiếm hiệp trước đó. Ngoài ra, những nhân vật kiếm hiệp của Cổ Long không gắn với những thời kỳ lịch sử nhất định nào, từ đó trí tưởng tượng được phát huy tối đa tạo ra những nhân vật truyền kỳ nổi tiếng khắp châu Á như Đạo Soái Sở Lưu Hương, Tiểu Lý Phi Đao, Lục Tiểu Phụng v.v… nhà nghiên cứu kiếm hiệp Trần Mặc đã có những nhận định sắc sảo: “Cần phải khẳng định rằng Cổ Long là một nhà cách tân tiểu thuyết kiếm hiệp. Ông là nhà nhà tiểu thuyết kiếm hiệp ưu tú nhất sau Kim Dung và Lương Vũ Sinh. Ông đã mở rộng tầm nhìn và không gian của tiểu thuyết kiếm hiệp, mở ra kỉ nguyên mới, con đường mới của tiểu thuyết kiếm hiệp. Văn phong của ông rất độc đáo, ảnh hưởng rất sâu rộng. Thành tựu sáng tác tiểu thuyết kiếm hiệp của Cổ Long đương nhiên không chỉ ở phương diện văn phong, văn thể mà là ở chỗ ông đã tiến hành một sự cách tân và cải tạo triệt để đối với tiểu thuyết kiếm hiệp truyền thống. Cống hiến của Cổ Long là đã mở ra con đường sáng tác kết hợp giữa Đông và Tây, tràn đầy tinh thần nhân văn hiện đại, biểu hiện ở sự tôn trọng con người, coi trọng nhân tính”.

Cùng thời kỳ này cũng có những danh gia kiếm hiệp khác như Lương Vũ Sinh, Ngọa Long Sinh, Ôn Thụy An được nhà nghiên cứu Trần Mặc xếp vào hàng ngũ Kiếm hiệp Ngũ Đại Gia cùng với Kim Dung và Cổ Long. Tuy nhiên xét về tầm ảnh hưởng, Kim Cổ vẫn có sức ảnh hút mẽ hơn cả.

4.Tiểu thuyết kiếm hiệp hiện đại

Sau khi Kim Dung phong bút, Cổ Long qua đời, những cái tên như Ôn Thụy An được kỳ vọng sẽ mở ra những lối đi mới của tiểu thuyết kiếm hiệp nhưng rõ ràng kỳ vọng này là quá lớn, vượt khỏi tầm vóc của Ôn Thụy An mặc dù những trước tác của họ Ôn không phải không có chỗ độc đáo.

Cho đến khi Huỳnh Dị xuất hiện trên văn đàn, người đọc lại thêm một lần nữa ngây ngất trước những trước tác lớn có trí tưởng tượng kỳ vĩ và tình tiết lôi cuốn người đọc đến nghẹt thở. Khác biệt với những người đi trước, Huỳnh Dị kết hợp những câu truyện mang đầy tính khoa học viễn tưởng vào với những trang viết truyện kiếm hiệp của mình. Tầm Tần Ký và Đại Đường Song Long truyện và nhiều sáng tác sau này của ông đều mang dáng dấp của sự kết hợp nhuần nhuyễn đó. Những tác phẩm đầy chất huyền ảo nhưng vẫn mang đậm chất kiếm hiệp đã tạo cho Huỳnh Dị danh hiệu là “cha đẻ của thể loại Huyền ảo kiếm hiệp”. Đồng thời, ông cũng xứng đáng là gạch nối tiêu biểu nhất của thể loại kiếm hiệp kết nối từ Kim Dung – Cổ Long đến những người viết kiếm hiệp trẻ sau này.  

Nhắc đến những người viết kiếm hiệp trẻ, người ta phải nhắc đến sự nổi lên của những tác giả trẻ tuổi nhưng
bút lực tràn trề, sức tưởng tượng rộng lớn. Điểm đặc biệt là họ minh chứng tầm ảnh hưởng của mình bằng những tác phẩm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ. Trong số đó, không thể không kể đến nhóm “Tân Thần Châu Ngũ hiệp” bao gồm Tiêu Đỉnh, Phượng Ca, Bộ Phi Yên, Tiểu Đoạn và Thương Nguyệt. Mỗi người một vẻ, một thế mạnh, một lối khai phá. Tiêu Đỉnh với tác phẩm Tru Tiên được coi là “Đệ nhất kỳ thư thời đại Internet” có phong cách viết và trí tưởng tượng thâm viễn, xứng đáng là người tiếp nối Hoàn Châu Lâu Chủ. Tuy nhiên tiếp sau Tru Tiên là gì? Người ta vẫn đang chờ đợi những trước tác mới của Tiêu Đỉnh. Ngoài ra ta còn thấy sự vươn lên của Phượng Ca với một phong phạm trầm ổn uyên bác ảnh hưởng mạnh mẽ của Kim Dung. Cũng không thể không kể đến văn phong và tình tiết sắc lạnh đầy vẻ huyền ảo của Bộ Phi Yên như một bước tiếp nối của kiểu hành văn Cổ Long. Nhiều người còn kỳ vọng vào một Tiểu Đoạn với những trang tuyệt bút thấm đẫm triết lý nhân sinh hay những tình cảm xót xa tinh tế trong văn của Thương Nguyệt. Đó đều là những người có khả năng khai phá những lối đi mới của dòng văn học kiếm hiệp.

Điểm kỳ lạ của văn học kiếm hiệp là tính tương hợp mạnh mẽ của dòng văn học này. Như nhận xét của Cổ Long: “Trong truyện tiểu thuyết trinh thám không có kiếm hiệp, nhưng tiểu thuyệt kiếm hiệp lại có trinh thám. Trong tiểu thuyết tình cảm không có kiếm hiệp nhưng tiểu thuyết kiếm hiệp lại có tình cảm. Đó là đặc tính dị biệt của tiểu thuyết kiếm hiệp”. Trong khi một số nhà phê bình vẫn chỉ coi văn học kiếm hiệp là dòng á văn học thì một số lượng lớn độc giả vẫn thích thú với dòng văn học này. Ngay tại Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận thấy hàng loạt diễn đàn bàn luận về truyện kiếm hiệp như www.vietkiem.comwww.maihoatrang.com , www.tangthuvien.comwww.luongsonbac.com,www.nhanmonquan.com, Kiếp hiệp cốc của Diễn đàn Trái tim Việt Nam hay www.kimdung.chungta.com với hàng triệu thành viên từ Bắc chí Nam và những cuộc thi viết truyện kiếm hiệp sôi động, có thể nói văn học kiếm hiệp cũng có thể là một hướng tiềm năng của văn học trẻ nước ta…

HOÀNG TÙNG
(Ngun tài liu tham kho: Tiu lun Nói đến Kiếm hip ca C Long, Kiếm hip Ngũ đi gia ca Trn Mc, phát biu ca Lương Vũ Sinh v b phim Tht Kiếm và nhng thông tin khác t Bách khoa Wikipedia)

Kiếm hiệp Việt: Có "cầu" nhưng thiếu "cung"


VĂN HỌC KIẾM HIỆP VIỆT
Có “cầu” nhưng thiếu “cung”
(Trao đổi thêm với tác giả Đoàn Minh Tâm) 

(VĂN NGHỆ TRẺ) - Bài viết “Truyện ngắn lịch sử - dòng chảy ngầm trong văn trẻ hiện nay” của tác giả Đoàn Minh Tâm là một trong những bài phê bình khiến tôi có nhiều tâm đắc, đặc biệt là đoạn tác giả bình về văn học kiếm hiệp - lịch sử.
Là một người say mê văn học kiếm hiệp (VHKH) cả ở góc độ người đọc và sáng tác, tôi muốn trao đổi một số vấn đề về VHKH Việt Nam nhằm khơi gợi ra một số ý tưởng về khả năng phát triển VHKH Việt.

1.VHKH – Tà ma ngoại đạo?

VHKH từ lâu vốn luôn nằm trong một trạng thái bị coi thường. Nếu như văn học khai thác đề tài lịch sử luôn được trân trọng thì VHKH (dù có đến 70% cốt truyện đều lấy từ lịch sử) nhưng hầu như đều bị coi là dòng “văn học ba xu”. Thậm chí trong một thời gian khá dài, VHKH không được khuyến khích, thậm chí còn bị cấm đoán. Nói theo ngôn ngữ của kiếm hiệp thì đó chỉ là một dạng “ma giáo” nằm ở hạng “tà ma ngoại đạo” chứ không thể nào sánh ngang cùng với cả những dòng văn học chính danh khác.

Phải chăng đó là lý do mà hiếm có nhà phê bình văn học nào lại thể hiện sự yêu thích của mình đối với dòng văn học bình dân này? Thế nên tôi khá ngạc nhiên khi thấy tác giả Đoàn Minh Tâm với tư cách là một nhà phê bình văn học lại thừa nhận sự yêu thích của mình dành cho VHKH mà không ngại bị những nhà phê bình “bác học” khác nhìn mình bằng con mắt khác.
Trở lại với VHKH Việt, trên một phương diện nào đó, VHKH tại Việt Nam trải qua một quá trình phát triển rất gập ghềnh. Mặc dù ảnh hưởng của VHKH đến đến đời sống tinh thần của người Việt là không hề nhỏ bé. Hãy xem thử vài từ ngữ Việt chịu ảnh hưởng từ ngôn ngữ kiếm hiệp: tẩu hỏa nhập ma, chưởng, rửa tay gác kiếm, ma giáo v.v… Tuy dòng VNKH có ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa Việt nhưng những tác phẩm VHKH Việt đương đại vẫn vắng bóng. Người yêu thích truyện kiếm hiệp Việt Nam tương đối có tuổi vẫn đọc đi đọc lại những Kim Dung, Cổ Long, Lương Vũ Sinh, Ôn Thụy An. Những bạn trẻ thì trao đổi nhiệt tình trên mạng những tác phẩm kiếm hiệp nổi tiếng mới như Tru Tiên (Tiêu Đĩnh), Thất Dạ Tuyết (Thương Nguyệt), Tu La Đạo (Bộ Yên Phi) v.v…

Điều đáng nói, trên hơn 20 forum chuyên về kiếm hiệp, nổi tiếng nhất như Tàng thư viện, Kiếp hiệp cốc, Nhạn môn quan, Lương Sơn Bạc v.v… với hơn một trăm ngàn ngàn thành viên, không thiếu những topic sôi nổi nói về truyện kiếm hiệp Việt Nam. Nhìn sâu một chút, ta có thể dễ dàng thấy được sự ca thán, sự thất vọng về việc: Tại sao chúng ta lại thiếu vắng những tác phẩm VHKH Việt đương đại? Đây là một câu hỏi mà những tác giả, những nhà phê bình cần phải quan tâm!
Để tạm đánh giá, tôi xin chủ quan đưa ra một số nhân định sau về việc thiếu vắng những tác phẩm VHKH Việt đương đại: Thứ nhất, VHKH ở Việt Nam bị cho là dạng văn học hạng hai, căn bản là rẻ tiền và thiếu tính nghệ thuật. Điều này khiến những bạn trẻ yêu thích văn học sẽ không ưu tiên chọn viết VHKH. Thứ hai, một số người viết ra những tác phẩm VHKH thì kiếm được nơi công bố tác phẩm lên điều khá khó khăn. Bản thân tôi là người từng sáng tác một số tác phẩm văn học kiếm hiệp – lịch sử nhưng khi đưa truyện cho BTV thì cũng nhận được góp ý là cần phải giảm bớt phần kiếm hiệp mà phải nhấn mạnh đến phần lịch sử. Không nhiều tác giả chấp nhận chỉnh sửa tác phẩm của mình như vậy. Và chỉ sau một đôi lần thử sức mà không thành công thì họ sẽ không theo đuổi VHKH làm gì. Thứ ba: trong một thời gian dài, do những điều kiện về lịch sử và những yếu tố ngoài văn học, VHKH không được lưu truyền rộng rãi, thậm chí còn bị cấm đoán. Đến nay, tuy cái nhìn với VHKH đã thoáng hơn nhiều nhưng không ít người vẫn coi VHKH là vùng nhạy cảm, nên tránh là hơn.

2.Tín hiệu từ VHKH quốc tế

Những chỉ cần nhìn rộng hơn một chút, ta có thể lập tức thấy được tiềm năng của VHKH. Những phản ứng từ thị trường quốc tế về VHKH rất đáng để văn học trong nước tham khảo.
VHKH đã có những chuyển biến mạnh mẽ gây ra nhiều chấn động trong giới nghệ thuật gần đây. Tháng 2 năm 2006, trong một cuộc bình chọn những nhà văn Trung Quốc được yêu thích nhất thế kỷ 20, Kim Dung (tác giả được trân trọng xếp ở vị trí thứ 4, sánh ngang cùng với những tên tuổi lừng danh khác như Lỗ Tấn, Ba Kim, Lão Xá v.v… Kim Dung cũng là một trong những nhà văn Trung Quốc được dư luận quốc tế công nhận với huân chương Bắc đẩu bội tinh, trở thành Giáo sư danh dự của trường Đại học British Columbia, Tiến sĩ danh dự của Đại học Cambridge. Tác phẩm của ông đã được đưa vào sách giáo khoa, được giảng dạy ở bậc đại học. Bộ môn nghiên cứu Kim học - Jinology thu hút được nhiều người tham gia trong đó có những học giả nổi tiếng Trần Mặc, Nghê Khuông v.v… Những tác phẩm nghiên cứu về Kim Dung đã được tập hợp lại thành một bộ lưu trữ độ sộ mang tên Kim học nghiên cứu tùng thư. Tác phẩm của ông cũng đã được đưa vào giảng dạy tại trường học.

 Một sự kiện nghệ thuật lớn của thế giới cách đây vài ngày cũng liên quan đến VHKH. Có là việc tác phẩm điện ảnh Ngọa Hổ Tàng Long được tạp chí danh tiếng Times đưa vào danh sách “10 kiệt tác điện ảnh hay nhất thế giới của thập kỷ đầu thế kỷ 21”. Ngọa Hổ Tàng Long chính là tác phẩm dựa trên bộ tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng cùng tên của tác giả Vương Độ Lư.
Những thừa nhận mang tầm quốc tế của những tổ chức nghệ thuật – nghiên cứu lớn nhất trên thế giới đối với VHKH đáng để cho những nhà phê bình “bác học” nhất cũng phải lưu ý về giá trị của VHKH. Đã đến lúc nhận thức về việc VHKH là dòng văn học hạng hai cần phải được nhìn nhận lại. Điều quan trọng hơn, với làn sóng và số lượng người yêu thích truyện kiếm hiệp rất lớn, ta làm thế nào để sử dụng VHKH như một phương tiện truyền bá văn hóa lịch sử Việt Nam sao cho hữu ích!

3.Lối đi nào cho VHKH Việt?

VHKH ở Việt Nam có một thị trường bạn đọc lớn. Thể hiện rõ nhất là những tác phẩm bình luận VHKH như Kim Dung giữa đời tôi (Vũ Đức Sao Biển) hay Lai rai chén rượu giang hồ (Huỳnh Ngọc Chiến) đã được tái bản nhiều lần với số lượng xuất bản rất khả quan. Khi mạng thông tin Internet được mở rộng, khá nhiều trang web chuyên về đề tài võ hiệp đã được thành lập. Điều đáng nói, những người điều hành – admin, hay nhữngngười quản trị - moderator của những trang web này phần lớn đều là thế hệ 7x trở lại. Trong số những trang web nổi tiếng về VHKH nước ta phải kể đến Tàng Kinh Cốc, Tàng Thư Viện, Nhạn Môn Quan, Lương Sơn Bạc, Việt Kiếm v.v… với số lượng thành viên đăng ký lên tới hàng trăm ngàn người. Không thể phủ nhận nhu cầu đọc truyện kiếm hiệp của rất nhiều độc giả hiện nay.

Trước thực trạng những bạn trẻ không biết nhiều về lịch sử, chúng ta cần phải nghiêm túc nhìn nhận lại phương thức đưa lịch sử đến cho các bạn trẻ đã phù hợp hay chưa? Liệu rằng nó có khô cứng quá hay không?
Không thể đổ toàn bộ lý do của sự thiếu hụt kiến thức lịch sử cho việc giới trẻ không thích lịch sử! Không có lý do gì những con người có thể làu thông những điển tích của Trung Quốc, có thể kể ra chi tiết những nhân vật kiếm hiệp lịch sử như Tiêu Phong, Quách Tĩnh, Dương Quá… lại không yêu thích lịch sử. Tôi nghĩ, nếu như chúng ta có thể xây dựng được những mẫu hình nhân vật lịch sử kiếm hiệp Việt Nam, tôi nghĩ chắc chắn đó sẽ là cơ hội lớn để các bạn trẻ yêu thích lịch sử hơn, yêu thích văn chương hơn, có tinh thần tự cường dân tộc hơn.

Những điều đó có thể thực hiện được qua những tác phẩm văn học kiếm hiệp - lịch sử. Đó là con đường đã có “cầu” nhưng chưa có “cung”.
Tại sao có “cầu” nhưng chưa có “cung”? Tôi nghĩ có hai lý do. Thứ nhất, các NXB, các nhà sách còn khá dè dặt  trong việc giới thiệu những tác phẩm VHKH mới vì tư duy cho rằng đây là dòng văn học hạng hai, ít người đọc. Thứ hai, do việc viết kiếm hiệp lịch sử thường có sự lật lại, đánh giá lại những hình tượng lịch sử, điều này có thể khiến nhiều người cho rằng đó là vấn đề “nhạy cảm”, tốt nhất là nên tránh đi cho khỏi phiền hà. Thứ ba, những tác phẩm VHKH Việt còn kém chất lượng so với những danh tác VHKH của những cây đại thụ như Kim Dung, Cổ Long. 
Hai vấn đề đầu tiên thuộc về nhận thức của từng cá nhân/tổ chức, không có nhiều điều đáng nói. Riêng ở vế thứ ba, tôi nghĩ rằng thời đại mới cần phải có những hơi thở mới. Liệu những tác giả 7x - 8x chuyên viết kiếm hiệp nổi tiếng nhất ở Trung Quốc có thể sánh vai cùng Kim Dung hay Cổ Long? Đương nhiên là chưa thể. Tuy nhiên, người đọc cũng không thể nào nhai đi nhai lại mãi những tác phẩm của các bậc tiền bối cho dù đó là những kiệt tác của VHKH.

Đó là lý do những tác phẩm VHKH mới của Trung Quốc vẫn được bạn đọc của ở Trung Quốc và Việt Nam đón nhận nồng nhiệt. Có thể kể đến tác phẩm Tru Tiên (của tác giả Tiêu Đĩnh) đã trở thành một hiện tượng lớn nhất của ngành xuất bản Trung Quốc, được xưng tụng là “đệ nhất kỳ thư thời đại Internet” với hàng triệu người truy cập và háo hức đón đọc và mức tiền bản quyền xuất bản kỷ lục. Sức hút của VHKH cũng khiến nhiều nhà văn trẻ tại Trung Quốc chọn con đường này để lập danh. Trong số đó, không thể không kể đến nhóm “Tân Thần Châu Ngũ hiệp” bao gồm Tiêu Đỉnh, Phượng Ca, Bộ Phi Yên, Tiểu Đoạn và Thương Nguyệt. Họ đều là những nhà văn triệu phú với tiền bản quyền cao ngất ngưởng.

4.Vỹ thanh

Tôi chia sẻ những nhận định của tác giả Đoàn Minh Tâm với suy nghĩ: tiểu thuyết lịch sử - kiếm hiệp là một hướng đi khả thể trong việc thu hút bạn đọc tìm đến với văn chương chữ nghĩa.
Ở nước ta, con đường của VHKH còn nhiều gập ghềnh do nó còn vấp phải nhiều quan niệm khắt khe. Tuy nhiên, bởi nhìn thấy sức mạnh tiềm tàng của VHKH trong việc khơi gợi tinh thần yêu nước qua những câu truyện lịch sử, tôi đã sáng tác những tác phẩm kiếm hiệp - lịch sử Việt. Tôi tin rằng nếu ta đưa được lịch sử gắn kết cùng kiếm hiệp, gắn kết những hình tượng kiếm hiệp cùng với những nhân vật lịch sử, chắc chắn đó sẽ là một công cụ quyền lực có thể đưa lịch sử Việt Nam đến gần hơn tới bạn đọc.

Truyện ngắn lịch sử - dòng chảy ngầm


Truyện ngắn lịch sử - dòng chảy ngầm trong văn trẻ hiện nay

Đoàn Minh Tâm


Có thể nói phần lớn các cây bút trẻ đến với đề tài lịch sử như một người khách dạo chơi, thoáng qua phút chốc cho thỏa mãn sự tò mò hay chí tang bồng chứ hiếm khi “chịu ăn đời ở kiếp”. Viết vài ba, thậm chí chỉ một truyện ngắn lịch sử xong là họ chuyển sang viết cái khác. Những tác giả có khoảng trên chục truyện ngắn lịch sử như Uông Triều và Hoàng Tùng thuộc dạng “của hiếm”.

Về mặt thời gian, ngoài lựa chọn tất yếu là các triều đại phong kiến Việt Nam thì mốc thời gian gần nhất so với thời điểm hiện tại trong các truyện ngắn lịch sử của một số cây bút trẻ là những năm trước ngày độc lập. Đôi mắt Đông Hoàng của Uông Triều,Huyền thoại sông Lăng của Phùng Văn Khai đều diễn ra trong khoảng thời gian trước năm 1945. Dường như trong ý thức của một số cây bút trẻ sự kiện cách mạng tháng Tám thành công như lằn ranh giới phân biệt giữa lịch sử và hiện đại. Đây là điểm khá thú vị mà chúng tôi nghĩ cần có sự trao đổi, suy ngẫm khi bàn đến khái niệm “truyện lịch sử”.

Về phương diện nhân vật, ngoài các nhân vật có thật, nổi tiếng trong lịch sử như Trần Thủ Độ, Lê Chân, Hoàng Diệu, Nguyễn Ánh…, một số tác giả trẻ còn chú tâm xây dựng các nhân vật hư cấu như quan tổng trấn Phùng Khắc Sơn trong Hồn Quỳnh của Phùng Văn Khai, Giao Long trong Giao long truyền kỳ của Hoàng Tùng. Ngoài hai kiểu nhân vật kể trên, việc xây dựng nhân vật dựa trên nguyên mẫu nhân vật hư cấu nổi tiếng trong lịch sử như Thúy Vân, Thúy Kiều của Nguyễn Phú cũng là một lựa chọn sáng tạo.

Đoạt mệnh uyên ương liên hoàn cước của Hoàng Tùng ca ngợi tinh thần thượng võ của dân tộc Việt. Hào hùng và bi tráng là hai âm hưởng chủ đạo trong các truyện ngợi ca những vị anh hùng dân tộc. Đặc biệt, trong Đêm nguyên phong và Giao long truyền kỳ, Hoàng Tùng đã lột tả khá thành công những tính cách đa chiều, phức tạp của thái sư Trần Thủ Độ cùng vua Gia Long – Nguyễn Ánh. Những lời đối thoại giữa Trần Thủ Độ và Đô Kình – người  nửa đêm vào hành thích mình nhằm trả thù cho vua Lý Huệ Tông - thực sự đã lột tả đầy đủ tính cách của một trong những nhân vật phức tạp nhất trong lịch sử dân tộc. Qua lời đối thoại, hiện lên hình ảnh một Trần Thủ Độ vừa đầy nhẫn tâm khi ép vua Lý Huệ Tông phải tự vẫn để củng cố vững chắc địa vị cho nhà Trần nhưng cũng vô cùng cảm khái khi can vua không nên hàng giặc. Hành động giết chết Giao Long để thu phục lòng đám thảo khấu rồi lập đàn tế lễ sau khi lên ngôi đã phản ánh sự trí trá trong quân cơ của Nguyễn Ánh.

Viết về lịch sử của một dân tộc có truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng bậc nhất thế giới, các truyện lịch sử đều ít nhiều miêu tả những cảnh chiến trận, những màn đấu võ giữa các cá nhân. Nếu như các tác giả trẻ làm tái hiện phần nào quy mô hoành tráng của những trận “quyết chiến chiến lược” của cha ông ta ngày trước thì những màn tỷ võ họ miêu tả lại chưa làm thỏa mãn người đọc. Một số tác giả trẻ, đặc biệt là Hoàng Tùng đã rất nỗ lực trong việc miêu tả những màn tỷ thí võ nghệ cá nhân. Anh đã mạnh dạn gọi truyện của mình là truyện kiếm hiệp Việt Nam.(Khi nhìn dòng chữ này chúng tôi mừng như bắt được vàng) Nhưng tiếc là những gì anh miêu tả chưa thật sự hấp dẫn bạn đọc, nhất là với những bạn đọc yêu thích thể loại kiếm hiệp… như chúng tôi.  Ngay cả những màn tỷ võ trong các truyện mà tính kiếm hiệp trội hơn tính văn học như Bảo kiếm truyền kỳ, Linh miêu quyền, ….dù tác giả đã cố gắng hết sức nhưng là chưa đủ để thuyết phục được những ai đã đọc Kim Dung, Cổ Long, Ngọa Long Sinh… 

Dẫu vậy với tư cách là bạn đọc yêu văn chương nói chung và thể loại kiếm hiệp nói riêng, chúng tôi rất vui mừng với sự xuất hiện của Hoàng Tùng. Hy vọng sẽ gặp lại anh – và nhiều cây bút nữa thì càng tốt - ở một hướng đi mà chúng tôi nghĩ rằng là khả thể nhất trong việc thu hút bạn đọc tìm đến với văn chương chữ nghĩa: Thể loại tiểu thuyết lịch sử - kiếm hiệp. Tất nhiên là với một level mới.

Báo Tổ Quốc viết về tác giả Hoàng Tùng


Đầu tháng 9, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức cuộc hội thảo Sáng tác văn học về đề tài lịch sử. Theo đánh giá của nhiều người (trong và ngoài cuộc) thì đây là cuộc hội thảo quy mô, chuẩn bị kĩ lưỡng, có chất lượng, thu hút được sự quan tâm của nhiều người trong giới và đông đảo bạn đọc. Có rất nhiều “cây đa”, “cây đề” trong làng văn chuyên tâm với đề tài lịch sử, các học giả, nhà lí luận phê bình nổi tiếng được mời tham gia. Không ít người nghĩ rằng với những tham luận thẳng thắn, tâm huyết, có tính học thuật cao… thì cuộc hội thảo sẽ là một “cú hích”, làm mảng đề tài này có thể thu hút được nhiều tác giả, và không xa sẽ xuất hiện những tác phẩm xứng tầm với lịch sử hào hùng hơn 4000 năm của dân tộc.
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm một điều, dường như cuộc hội thảo này đã không “dành cửa”, không phải là “chiếu” cho người trẻ! Tác giả trẻ nhất được mời là Lưu Sơn Minh cũng xấp xỉ tứ tuần. Người “trẻ” thứ hai là nhà văn Sương Nguyệt Minh, vừa bước sang tuổi… 55! Còn hầu hết đại biểu đều đã U70, U80, một vài đại biểu U90. Việc thiếu vắng các gương mặt trẻ trong cuộc hội thảo phải chăng là hiện nay quá hiếm hoi các tác giả trẻ tâm huyết với đề tài lịch sử hay người trẻ chưa thực sự được quan tâm, “ưu ái” cũng như ghi nhận một cách đúng mức với đề tài lịch sử?
Gần đây, trên các diễn đàn văn chương đã có những bài viết xoay quanh vấn đề tác giả trẻ với đề tài lịch sử. Song, phải nói rằng một số bài chưa thực sự “điểm huyệt” được tình hình sáng tác đề tài lịch sử của người trẻ. Có ý kiến tỏ ra nghi ngờ, thậm chí phủ nhận những nỗ lực rất đáng quí, đáng trân trọng của tác giả trẻ với đề tài này. Ở bài viết này, chúng tôi không có tham vọng sẽ tranh luận, biện giải với những ý kiến trước đó mà chỉ xin nêu ra một vài vấn đề với tư cách là người trong cuộc.
Con đường không lẻ bóng…
Khoảng 5 - 7 năm về trước, tìm tác giả trẻ sáng tác về đề tài lịch chỉ có thể điểm tên được đúng 4 người: Lưu Sơn Minh, Dương Ngọc Hoàn, Trần Thu Hằng và Nguyễn Thị Diệp Mai! Nếu không mấy quan tâm hoặc chỉ đọc lớt phớt sáng tác của người trẻ thì càng không dễ điểm danh họ. Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ 8 (9/2011) có 113 đại biểu, 1/2 đại biểu là tác giả văn xuôi, nhưng chỉ đúng… 2 tác giả viết truyện lịch sử! Đó là Uông Triều vừa xuất bản tập truyện ngắn lịch sử Đôi mắt Đông Hoàng (2010) và Nguyễn Phú mới thử sức với mảng lịch sử, đã đăng tải vài truyện ngắn. Chỉ “soi” trong một khoảng thời gian và một cuộc hội nghị thì quả là đội ngũ người trẻ viết truyện lịch sử thật èo uột, khan hiếm. Càng khó khăn hơn khi tìm kiếm một tác giả “độc canh” với truyện lịch sử.
Điều đáng mừng vài năm trở lại đây, ngoài 4 tác giả trên vẫn tâm huyết với lịch sử, văn đàn đã xuất hiện thêm dăm bảy tác giả trẻ, trong số đó có một vài trường hợp cho biết sẽ chọn đề tài lịch sử cho văn nghiệp của mình. Hoàng Tùng (sinh năm 1980) thời gian qua nổi lên như một hiện tượng viết truyện lịch sử. Truyện của anh xuất hiện khá đều đặn trên các diễn đàn văn chương uy tín. Cuộc thi truyện ngắn của tuần báo Văn nghệ (2011 - 2013) chưa đến hồi kết, nhưng độc giả đã gặp truyện lịch sử của Hoàng Tùng trên dưới 10 lần. Một con số khá ấn tượng! Hoàng Tùng “trần tình” anh đang theo đuổi dòng văn học lịch sử kiếm hiệp, và mong muốn góp một chút mới mẻ cho không khí văn chương hiện nay. 
Truyện ngắn của Hoàng Tùng trong cuộc thi truyện ngắn của báo Văn nghệ cũng mang một giọng điệu mới với sự pha trộn giữa lịch sử và kiếm hiệp, có thể tạo bất ngờ trong cơ cấu giải thưởng khi cuộc thi kết thúc. Ngoài ra, truyện ngắn lịch sử của các tác giả trên cũng xuất hiện trên các tuyển tập có chất lượng như Tuyển văn mới 2010, Tuyển văn mới 5 năm(2005 -2010), Tuyển tập truyện ngắn đặc sắc, Tuyển tập truyện ngắn hay và đoạt giải...
Chưa phải là những bông hoa lạ kì, rực rỡ, ngạt ngào hương thơm tạo những cơn “xung chấn” cho độc giả nhưng tác phẩm của các tác giả trẻ về đề tài lịch sử thực sự là những bông hoa mới, đang tỏa thứ hương dìu dịu thanh cao trên đường thiên lí của những người gieo trồng mới giữa cánh đồng văn chương Việt. Tác phẩm của họ thời gian qua ít nhiều đã tạo được sự quan tâm của giới phê bình cũng như độc giả. Một đề tài tưởng như “héo úa”, “mất khách” đang tươi dần, “sôi động” trở lại bởi một phần là ở những nỗ lực rất đáng ghi nhận của những người trẻ.

Những năm gần đây văn học về đề tài lịch sử đã được nhìn nhận một cách công bằng, đúng với vai trò của nó trong dòng chảy văn học Việt Nam. Có lẽ điều đó sẽ góp phần không nhỏ tạo bước “đột phá” mới về đội ngũ sáng tác cũng như tác phẩm về đề tài này trong thời gian tới!

Tổng quan về văn học kiếm hiệp Việt


Khảo luận: Thăng trầm văn học kiếm hiệp Việt

Tác giả: Hoàng Tùng
Nếu như những tác phẩm văn học võ hiệp (VHVH) tại Phương Tây được đánh giá khá cao, thậm chí không ít trong số đó đã trở thành những tác phẩm kinh điển thì tại nước ta, VHVH đã trải qua rất nhiều thăng trầm. Những tài liệu còn lại về dòng văn học này là khá hiếm hoi và hầu như không có một hệ thống nào lưu trữ một cách tương đối tươm tất. Tuy nhiên, hàng loạt những trang web, những diễn đàn… được những người hâm mộ tạo lập với hàng chục ngàn thành viên tham gia đã cho thấy sức hút của VHVH tại Việt Nam. Và VHVH thực sự vẫn là một mảnh đất tiềm năng đang chờ đợi những tác giả đam mê thử bút.

1.VHVH, từ Đông sang Tây

VHVH là một trong những mảng đề tài lớn của văn học thế giới. Như một mẫu số chung về mặt tâm lý, hình tượng những hiệp khách với bản lĩnh phi thường, tang bồng nơi chân trời góc bể, trừ gian diệt bạo, cứu khốn phò nguy uôn là một mơ ước đối với bất kỳ nền văn hóa nào. Khá nhiều hình tượng của VHVH từ Đông sang Tây đã trở nên bất tử như Nam hiệp Triển Chiêu (Thất hiệp ngũ nghĩa – Truyên dân gian Trung Quốc), vua trộm rừng xanh Robin Hood của vùng Nottingham (truyện dân gian Anh) hay hiệp sĩ Ivanhoe (Walter Scott).
Tuy nhiên, nói đến tác giả võ hiệp xuất sắc nhất trước thế kỷ 20, người ta không thể không nhắc đến đại văn hào Alexandre Dumas. Những tác phẩm của ông nhưBá tước  Monte Cristo và bộ ba tác phẩm Ba người lính ngự lâm, Hai mươi năm sau  Tử tước de Bragelonne: Mười năm sau tiếp đã trở thành mẫu mực cho VHVH phương Tây. Điều đáng ghi nhận bậc nhất ở Alexandre Dumas đó là những tác phẩm ông viết đều ở dạng sê-ri đăng trên tờ báo Le Siècle. Đây là hình thức sáng tác feuilleton, một trong những dạng thức sáng tác mà sau này rất nhiều nhà văn viết truyện võ hiệp kết hợp với các tòa soạn báo. Cách viết này đòi hỏi các nhà văn liên tục phải sáng tác đều đặn mỗi ngày một số lượng chữ nhất định, đồng thời, nhà văn cũng phải có kỹ thuật ngắt mạch, tạo được sự khao khát của độc giả muốn chờ xem tiếp theo câu chuyện sẽ diễn tiến như thế nào. Ở lĩnh vực này, Alexandre Dumas xứng đáng là cây bút bậc thầy. Những nhà văn viết truyện võ hiệp sau này hiếm ai không chịu ảnh hưởng của Alexandre Dumas với tư duy sáng tác: “Lịch sử là bức tường còn tiểu thuyết là những bức tranh”.
Tuy nhiên, phải sang đến thế kỷ 20, VHVH mới thực sự chuyển mình và trở thành một cơn sốt với hàng loạt tác gia nổi tiếng như Vương Độ Lư, Lương Vũ Sinh Kim Dung, Cổ Long, Ôn Thụy An. Những năm vừa qua, cùng với việc chính quyền Trung Quốc thừa nhận rộng rãi tài năng của nhà văn Kim Dung, cùng với đó là hàng loạt tác phẩm võ hiệp được tái xuất bản tạo nên một làn sóng của những tác giả võ hiệp trẻ ở lứa tuổi 7x – 8x tiếp nối viết nên nhiều tác phẩm gây sóng gió trên văn đàn. Chính những làn sóng võ hiệp này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến VHVH Việt Nam.

2.VHVH Việt Nam – Hành trình gập ghềnh

Trong suốt quá trình manh nha, hình thành và phát triển, VHVH Việt Nam đã để lại một di sản khá lớn. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố về lịch sử văn hóa, cho đến tận ngày nay, hiếm có công trình nào khả dĩ nghiên cứu đầy đủ về VHVH Việt. Có thể coi đây là một khoảng trống khá lớn trong việc nghiên cứu văn học lịch sử nước ta. Bởi dù thích hay không thích, người ta không thể phủ nhận những ảnh hưởng của VHVH đến đời sống tinh thần của người Việt là không hề nhỏ bé.
Sở dĩ VHVH Việt Nam chưa có được sự nhìn nhận đúng đắn, đồng thời cũng vắng bóng những công trình nghiên cứu về đề tài này, theo người viết bắt nguồn từ một số lý do chính yếu như sau. Thứ nhất, nước ta không có truyền thống viết truyện võ hiệp. Nếu như văn học là tấm gương phản chiếu văn hóa – lịch sử thì sự thực lịch sử nước ta không có những hiệp khách và thiếu vắng những tổ chức bang hội môn phái. Chính vì vậy, trong lịch sử văn học Việt Nam trước thế kỷ 20, khó có thể chỉ ra tác phẩm nào hội tụ được tương đối tinh thần của VHVH. Thứ hai, VHVH vốn cho đến tận ngày nay vẫn bị coi thường là loại văn học “ba xu”, rẻ tiền, căn bản không xứng đáng đứng ngang hàng với những dòng văn học “chính tông” khác. Nói theo ngôn ngữ kiếm hiệp thì so với dòng văn học chủ lưu, VHVH dễ bị coi là dạng “tà ma ngoại đạo”. Chính vì vậy, những tác phẩm văn học võ hiệp không mấy được khuyến khích và điều này gây ra cản trở lớn đối với nhiều người viết muốn thử sức ở lĩnh vực văn học này. Thứ ba, trong một thời gian dài, do những điều kiện về lịch sử và những yếu tố ngoài văn hóa, VHVH không được lưu truyền rộng rãi, thậm chí còn bị cấm đoán. Điều kiện xuất bản những tác phẩm võ hiệp kinh điển đã khó, việc xuất bản những tác phẩm VHVH Việt càng khó gấp bội. Điều này khiến đa số những tác phẩm VHVH một thời gian dài đều xuất hiện theo hình thức xuất bản không chính ngạch, thậm chí đến với người đọc ở dạng truyền tay. Đó là lý do khiến cho không ít tác phẩm xuất hiện ở dạng không đầy đủ, không thực sự phản ánh đẩy đủ giá trị nguyên bản. Thứ tư, nhìn nhận một cách khách quan, VHVH Việt thiếu vắng những tác phẩm văn chương đủ tầm vóc và chất lượng để có thể đánh động dư luận và hướng người đọc tới một cái nhìn thiện cảm hơn với dòng văn học này. Trong khi đó, những tác phẩm VHVH tầm tầm hoặc kém phẩm chất lại không ít. Điều này khiến nhiều nhà phê bình đánh giá thấp VHVH, thực ra cũng có một phần lý do xác đáng trong đó.
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống, nhiều người vẫn thích đọc VHVH. Và mặc dù đứng khá tách biệt khỏi dòng văn học chủ lưu, nhưng VHVH vẫn sống khỏe. Tính riêng số lượng người yêu thích VHVH trên các diễn đàn võ hiệp trên mạng đã ở con số không dưới vài chục ngàn người. Điều này thể hiện sức sống tiềm tàng của dòng văn học này.
Cùng với việc Kim Dung chỉnh sửa lại tác phẩm của mình và tái bản với những tình tiết truyện mới, nhiều NXB đã tiến hành xuất bản lại những tác phẩm VHVH kinh điển. Cùng với đó là trào lưu viết truyện võ hiệp cũng nở rộ trong số những người viết văn trẻ. Đáng kể nhất là tác phẩm Tru Tiên (của tác giả Tiêu Đĩnh) đã trở thành một hiện tượng lớn nhất của ngành xuất bản Trung Quốc, được xưng tụng là “đệ nhất kỳ thư thời đại Internet” với hàng triệu người truy cập và háo hức đón đọc từng chương truyện được tác giả xuất bản trên mạng. Tru Tiên không chỉ gây sốt ở Trung Quốc mà khi được dịch sang tiếng Việt, tác phẩm này đã thu hút được một số lượng đông đảo độc giả nước ta đón đọc. Đó cũng là chất kích thích khiến khá nhiều cuộc thi sáng tác truyện võ hiệp Việt được tổ chức trên các trang mạng chuyên về VHVH.
3.Nền tảng võ hiệp Việt
Như đã phân tích ở trên, nước ta không có truyền thống viết truyện võ hiệp. Để viết nên những tác phẩm dạng này, những nhà văn viết truyện võ hiệp nước ta đương nhiên sẽ chịu một số những ảnh hưởng, mô phỏng nhất định từ những tác gia lớn của VHVH trên thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình định hình và phát triển, VHVH Việt Nam có những nền tảng và hướng đi khá nhất quán.
Xét bề tính chất, VHVH tự thân nó có khả năng phân nhánh ra thành nhiều dòng nhỏ khác nhau. Nhà văn Cổ Long đã phát hiện ra một tính chất đặc biệt của văn học võ hiệp: “Trong văn học võ hiệp có thể có truyện tình cảm nhưng trong truyện tình cảm rất khó có thể có võ hiệp. Trong văn học võ hiệp có thể có trinh thám nhưng trong trinh thám khó có thể có võ hiệp. Đó âu là một trong những tính cách đặc biệt của VHVH. Nó có thể thâu tóm nhiều thể loại để tạo thành những phân nhánh nhỏ có thể chất riêng biệt”. Trên thực tế, có thể kể ra một số dòng chính của VHVH như VHVH dã sử, võ hiệp thần tiên (còn được gọi là tiên hiệp), võ hiệp kỳ tình (nhấn mạnh đến tình cảm nam nữ), võ hiệp trinh thám, võ hiệp sắc dục (còn gọi là sắc hiệp – nhấn mạnh hơn đến yếu tố sex làm chủ đạo) v.v… Dẫu vậykhông phải phân nhánh nào của VHVH cũng là ảnh hưởng lên VHVH Việt Nam.
Ngược trở lại nửa đầu thế kỷ 20, trong công cuộc giao lưu văn hóa với phương Tây, văn học nước ta đã chứng kiến sự chuyển mình mang tính đột phá, tạo nên một thời kỳ thăng hoa rực rỡ. Đó là thời kỳ nở rộ của những trào lưu văn học lãng mạn, thơ mới, văn học hiện thực phê phán v.v… tạo nên hàng loạt những tên tuổi nhà văn xuất sắc bậc nhất trong lịch sử văn học nước ta. Ở địa hạt VHVH, có thể kể ra một vài tác giả đã tạo nên những ảnh hưởng lớn lao đến những nhà văn võ hiệp Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử VHVH Việt, ta thấy không ít nhà văn thử bút trong lĩnh vực này lại là những người Tây học. Những tác phẩm họ viết ra mang nhiều nét tư duy sáng tác của đệ nhất văn hào võ hiệp phương Tây Alexandre Dumas. Alexandre Dumas là bậc thầy trong việc kết hợp lịch sử với võ hiệp, tạo nên những hình tượng nhân vật võ hiệp phương Tây cực kỳ sống động như chàng trai D’Artagnan cùng bộ ba lính ngự lâm Athos, Porthos và Aramis. Lối đi kết hợp kiếm hiệp và lịch sử, cùng với tư duy “kỳ tình” khá phương Tây của nhiều tác giả Việt Nam đều có ảnh hưởng ít nhiều Alexandre Dumas.
Một trong những đỉnh cao của VHVH là tác giả Kim Dung. Có thể coi Kim Dung là nhà văn võ hiệp có ảnh hưởng lớn nhất đến VHVH Việt Nam. Trước tiên, những tác phẩm của Kim Dung đã từng một thời làm mưa làm gió trong làng văn, làng báo Việt Nam. Tác phẩm của ông đã tạo thành một làn sóng đọc truyện võ hiệp khắp nơi, đặc biệt là ở miền Nam, nơi có cộng đồng thị dân rộng mở. Hơn nữa, những tác phẩm của Kim Dung ngoài việc là những tác phẩm võ hiệp kinh điển còn là những tác phẩm văn học xuất sắc. Đó là lý do tác phẩm Kim Dung được coi là “Minh chủ võ lâm” của dòng VHVH, tên tuổi sánh ngang với nhà văn lỗi lạc nhất của Trung Quốc như Ba Kim, Lỗ Tấn, Lão Xá… Ngoài ra, nhiều nhà văn nhà báo nước ta cũng yêu thích truyện võ hiệp của Kim Dung, bằng chứng là việc rất nhiều người lấy bút danh bằng tên những nhân vật của Kim Dung. Có thể nói, ảnh hưởng của Kim Dung lên VHVH là điều không thể phủ nhận, trong đó đương nhiên có cả VHVH Việt Nam.
Tóm lại, cái “tạng” viết truyện võ hiệp Việt Nam được định hình trên một số nền tảng: VHVH dựa trên những câu truyện truyền kỳ chạy theo một bối cảnh lịch sử nhất định làm khung nền với lối hành văn bạch thoại truyền thống. Điểm qua thì có thể thấy phần lớn những tác phẩm VHVH tiêu biểu của nước ta đều thấy ít nhiều mang trong mình những yếu tố đã đề cập ở trên.

4.Một số tác phẩm và tác giả đáng chú ý
Như đã đề cập, khá nhiều văn sĩ nước ta thích đọc truyện võ hiệp bởi họ lấy bút danh của mình bằng chính tên những nhân vật trong thế giới võ hiệp của Kim Dung hay Cổ Long. Từ việc say mê đến việc sáng tác là một khoảng cách không xa. Nhiều nhà văn nước ta đã viết nên những câu truyện võ hiệp của riêng mình. Thi sĩ Bùi Giáng, một người yêu thích truyện võ hiệp và từng viết một số truyện võ hiệp ngắn đã nhận định: “Đọc truyện vũ hiệp là một trong những phép tu dưỡng kí ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc theo lối hồn nhiên, hoặc vừa đọc vừa suy ngẫm. Chưởng lực, kiếm thế, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện. Riêng đối với bạn thi sĩ, sách vũ hiệp có thể giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ. Điều đó không có chi lạ: ban sơ vũ học, văn học,thi nhạc cùng phát khởi tại một cội nguồn: uyên nguyên của tinh thần xuất phóng”
Trong suốt quá trình các nhà văn nước ta theo đuổi dòng VHVH, khá nhiều người đã có được những dấu ấn đáng kể, tạo nên những điểm mốc của dòng văn học này. Tuy nhiên, cho dù số lượng tác phẩm VHVH Việt khá đồ sộ nhưng nếu đánh giá một cách khắt khe thì khó có thể nhặt ra được nhiều tác phẩm xuất sắc.
Một trong những tác giả tâm huyết bậc nhất với dòng VHVH Việt Nam phải kể đếnYên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ. Số lượng tác phẩm của ông khá nhiều. Theo như công bố, ông đã viết tới hơn 20 ngàn trang sách trong số đó có tới ba phần tư là những tác phẩm VHVH. Ông là người có vốn kiến thức lịch sử văn hóa uyên thâm, văn tài đáng kể. Những câu truyện của ông đều dựa khá sát vào nền tảng lịch sử, bao trùm lên nhiều thời đại khác nhau, từ thời Hai Bà Trưng đến Lý, Trần, Lê… với khá nhiều giả thiết lịch sử có thể gây tranh cãi. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông làAnh hùng Lĩnh Nam, Anh hùng Đông A, Nam quốc sơn hà v.v… Ta thấy trong tác phẩm của ông một tinh thần tự cường dân tộc và lòng yêu nước nồng nàn được thể hiện khá rõ nét qua những nhân vật hiệp khách người Việt. Tuy nhiên, nếu lịch sử là điểm mạnh thì võ hiệp lại là yếu huyệt của ông. Truyện của Trần Đại Sỹ thiếu vắng những tình tiết ly kỳ, nghẹt thở, những âm mưu được dàn xếp công phu mang phong vị đặc trưng của VHVH. Tóm lại, tác phẩm của ông được về mặt sử mà kém về mặt võ hiệp. Và xét theo tiêu chí của cả VHVH hoặc văn học dã sử thì đều khó có thể coi những bộ truyện võ hiệp ông viết là những tác phẩm hay.
Trong số những người viết truyện võ hiệp Việt Nam cũng ghi dấu Tiền Phong Từ Khánh Phụng. Chúng ta đều, Từ Khánh Phụng là một trong những dịch giả nổi tiếng bậc nhất trong việc chuyển ngữ những tác phẩm lớn nhất trong văn nghiệp của nhà văn Kim Dung sang tiếng Việt tại miền Nam thời trước 1975. Ngoài việc dịch thuật, Từ Khánh Phụng cũng đã từng chắp bút viết nên một số tác phẩm VHVH trong số đó có thể kể đến Hỏa Long thần kiếm, Quái khách muôn mặt, Trạm Lư bảo kiếm… Tuy nhiên có lẽ do ông chịu ảnh hưởng quá lớn của Kim Dung nên những tác phẩm của ông quá đậm chất Trung Quốc, thiếu vắng chất Việt.
Một số báo chí miền Nam sau đăng tải những truyện của Kim Dung và đã thu hút được một lượng độc giả lớn. Sau khi Kim Dung tuyên bố phong bút, ngừng viết để tập trung vào công việc chỉnh sửa và biên tập lại những truyện mình đã viết, nhiều tác giả đã nhanh nhạy viết truyện kiếm hiệp cũng theo kiểu feuilleton. Nổi tiếng nhất phải kể đến Lệnh xé xác của Lã Phi Khanh. Ngoài ra, có thể kể đến một số tác giả khác cũng thử sức trong lãnh vực VHVH như Sơn Linh viết Tử chiến Phiên Ngung thành, Giao Châu thất hùng, Cờ nghĩa thành Tây Đô. Tuy nhiên, cách xây dựng tính cách nhân vật và tình huống truyện của ông thường bị lên gân và có phần kịch khiến mạch truyện thiếu tự nhiên.
Một dịch giả khác đã chuyển ngữ khá nhiều tiểu thuyết võ hiệp Trung Quốc sang tiếng Việt là Phan Cảnh Trung. Ông cũng đã viết khá nhiều tác phẩm võ hiệp Việt. Thời gian vừa rồi, khá nhiều tác phẩm của ông được NXB Văn Nghệ in và tái bản gây chú ý nhất định đối với độc giả võ hiệp như Hiệp khách giai nhân lấy bối cảnh thời Nùng Trí Cao chống quân Tống, Hồng điệp ngọc trâm lấy bối cảnh Đại Việt dưới thời đô hộ của nhà Minh… Những tác phẩm của Phan Cảnh Trung không quá phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử, lấy yếu tố võ hiệp là chủ đạo, lịch sử chỉ là một khung nền mờ.
Nếu có thể chỉ ra một nhà văn viết truyện võ hiệp xuất sắc, có thể kể đến Lý Phật Sơn còn có bút danh là Hoài Điệp Thứ Lang. (Có thông tin cho rằng Lý Phật Sơn là bút danh của thi sĩ Đinh Hùng) Những tác phẩm của Lý Phật Sơn có sự giao hòa khá đầy đặn giữa yếu tố võ hiệp và yếu tố lịch sử như Long hổ tranh hùng, Kiếm báu hoa bay, Người đao phủ thành Đại La, Kỳ nữ gò Khâu Ôn, Hào kiệt Tây sơn… Lý Phật Sơn cũng có những phát kiến thú vị, như ông nghĩ ra Cái Bang của Việt Nam với những quy định riêng biệt, khác hẳn so với Cái Bang trong thế giới võ hiệp Trung Quốc. Qua những tác phẩm của mình, Lý Phật Sơn đã thể hiện kiến thức lịch sử uyên thâm, thấp thoáng có bóng dáng của tư tưởng Thiền học và Phật học trong tác phẩm. Điểm đáng chú ý đó là ngôn ngữ văn chương và cách kết cấu câu truyện của Lý Phật Sơn được đầu tư xây dựng khá cuốn hút. Những tác phẩm “đinh” của ông như Long hổ tranh hùng hay Hào kiệt Tây Sơn đều có thể coi là những bộ truyện võ hiệp xuất sắc trong kho tàng VHVH Việt Nam.
Khá nhiều tác giả khác cũng đã thử sức với VHVH Việt. Có thể kể ra tác giả Vũ Ngọc Đĩnh với Lam Sơn hào kiệt, Lê Đại Hành hoàng đế phá Tống hay Châu Thế Vũ với Lạc Hồng thần kiếm, Trần Minh Châu với Ngô vương bí lục và Trần Phiên Ngung với Nam thiên nhất tuyệt kiếm v.v… Và còn nhiều tác giả nữa cũng đã thử bút trong lĩnh vực VHVH. Tuy số lượng tác phẩm khá nhiều nhưng nội lực không đủ mạnh khiến các tác phẩm không có hơi văn riêng, không gây được ấn tượng đáng kể nào từ phía độc giả.

5.Nhà văn võ hiệp Việt đặc sắc nhất?

Với nguồn tài liệu bị thất lạc và thiếu nhất quán như hiện nay, khó có thể khẳng định tác phẩm nào được coi là tác phẩm võ hiệp đầu tiên của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu có thể bình chọn tác giả VHVH Việt xuất sắc nhất, mang đậm chất Việt nhất, sẽ rất nhiều người đồng ý ghi danh tác giả Hoàng Ly. Có thể nói, Hoàng Ly là người khai mở ra một lối viết VHVH đậm chất Việt, có nhiều mới mẻ so với những nhà văn viết truyện võ hiệp từ Đông sang Tây.
Điểm khác biệt khiến Hoàng Ly trở nên độc đáo, đó là tác phẩm của ông là sự kết hợp của ba yếu tố: truyện võ hiệp, truyện giả tưởng – fantasy  mang nhiều yếu tố tiên hiệp và truyện đường rừng. Sự kết hợp này xuyên suốt trong toàn bộ những tác phẩm của ông. Điều đáng nói, cả ba yếu tố: võ hiệp, giả tưởng và đường rừng đều được Hoàng Ly thể hiện một cách nhuần nhuyễn với một giọng văn lôi cuốn. Về mặt võ hiệp, những cuộc đấu của Hoàng Ly rất đa dạng, có thể là đấu võ, đấu kiếm hay thậm chí là đấu súng pạc-học với những tình tiết và nút thắt mở bài bản. Về mặt giả tưởng, Hoàng Ly đã vẽ nên những yếu tố thần bí nhưng hoàn toàn đặc trưng của văn hóa Việt, đó là tư duy về linh hồn, sự sống sau cái chết, niềm tin vào những con ma trành, ma xó, âm binh… khiến người đọc cảm thấy rất gần so với phông văn hóa dân gian Việt. Về tính chất đường rừng, tác phẩm Hoàng Ly chủ yếu lấy bối cảnh địa lý ở vùng biên cương phía Bắc, trải dài từ Điện Biên sang Lào Cai đến vùng Cao Bắc Lạng với những mô tả cảnh quan tuyệt mỹ và lý giải văn hóa uyên thâm thể hiện một kiến thức dân tộc học cực kỳ phong phú. Có thể nói, Hoàng Ly đã vạch ra một hướng đi vô cùng mới mẻ của VHVH Việt Nam, xứng danh là tác giả viết truyện võ hiệp Việt Nam xuất sắc nhất.
Cho đến ngày nay, những tác phẩm của Hoàng Ly như Lửa hận rừng xanh, Nữ chúa hồ Ba Bể, Giặc Cái, Một thời ngang dọc hay còn gọi là Thập Vạn Đại Sơn Vương v.v… vẫn được lưu truyền trên những trang chia sẻ truyện võ hiệp. Xuất sắc nhất trong số đó phải kể đến hai bộ tiểu thuyết trường thiên Lửa hận rừng xanh và Thập vạn đại sơn vương.
Lửa hận rừng xanh được coi là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Hoàng Ly cũng như của VHVH Việt. Nhân vật chính là Tù trưởng Ðèo Văn Lang người Thái với bối cảnh truyện trải dài khắp từ Lai Châu đến Lào Cai với những địa danh đậm chất vùng biên viễn như Phong Thổ, Phản Tây Phàn (Fansipan), Mường Lay, Mường Tè với những dòng miêu tả phong cảnh thể hiện tâm hồn một nhà văn yêu thiên nhiên với những quan sát tinh tế. Đây là một đoạn trích trong tác phẩm này: “Thượng du đất Việt có núi đồi trùng trùng điệp điệp vắt suốt từ Tàu sang nội địa Việt Nam, chạy dọc theo thế liên hành nhấp nhô khắp bốn phương tám hướng… Miệt Lào Cai đèo cao dốc vút rừng núi thiên hiểm hùng vĩ. Miệt Lai Châu lại là đất sản sinh nhiều ngựa nhất Đông Dương. Vùng Cao Bắc Lạng rất lắm xe ngựa, đặc biệt loại xe song mã, vừa chở hàng, vừa chở khách. Du khách thị thành, bình nguyên đi chơi hồ Ba Bể thường thích đi xe song mã, cỡi ngựa nếm phong vị sơn cước. Trai thanh gái lịch lũ lượt từng đoàn áo màu phấp phới như hoa nở sơn khê” Truyện có tình tiết ly kỳ, văn phong hùng hậu và trí tưởng tượng vô cùng phóng khoáng, đưa người đọc vào một thế giới võ hiệp – đường rừng đầy phong vị vùng núi non Tây Bắc rất lôi cuốn người đọc.
Trong khi đó, tác phẩm Một thời ngang dọc – Thập vạn đại sơn vương lấy bối cảnh lịch sử khi đất nước ta bị giặc Pháp đô hộ. Vua Hàm Nghi bị bắt. Tôn Thất Thuyết trốn sang Trung Quốc, mong chờ thời cơ khôi phục giang sơn. Họ Tôn mang theo kho báu của vua Hàm Nghi và quyết định chôn số vàng bạc châu báu này bên sông Đà ở Lai Châu và vẽ lại trên một tấm bản đồ để khi nghĩa quân nổi dậy có thể lấy sử dụng chiêu binh mãi mã, trả thù cho nước. Đó cũng là nguyên do khiến vô số đám sơn tặc vùng Tây Bắc lùng sục tìm kiếm tấm bản đồ kho báu. Trong khi đó, Hồng Lĩnh, con trai của một nghĩa quân làm cách mạng chống Pháp. Cha chàng bị đồng đội là Trần Tắc phản bội, bị quân Pháp đưa lên máy chém xử tử. Chàng bỏ lên miền núi Thập Vạn Đại Sơn làm nghề lạc thảo. Hồng Lĩnh có tuyệt kỹ bắn súng bách phát bách trúng nên còn được đám giặc cướp gọi là “Thần xạ”. Trên đường truy tìm Trần Tắc để báo thù nhà, chàng đã cứu được Phượng Kiều, người đang bị bọn thổ phỉ ở Cao Bằng bắt giữ. Không ai ngờ, Phượng Kiều chính là con gái của Trần Tắc và bọn thổ phỉ bắt nàng vốn nhằm buộc Trần Tắc giao cho chúng mảnh bản đồ kho báu. Từ đó, mối tình giữa chàng và Phượng Kiều nảy nở nhưng chàng cũng bị Trần Tắc cùng quân Pháp truy đuổi, mặt khác những mối họa của đám thổ phỉ cũng luôn rình rập khắp nơi…
Với hình thức kết cấu cốt truyện ly kỳ, một nền tảng kiến thức vững chắc, trí tưởng tượng cực kỳ phong phú đi cùng với một giọng văn cuốn hút, Hoàng Ly với những tác phẩm của mình có thể được coi là điểm sáng lớn nhất và cũng là thành tựu đáng kể nhất của VHVH Việt Nam.

6.VHVH Việt trong thời đại Internet
Thực tế đã cho thấy, số lượng người yêu thích VHVH ở nước ta không hề nhỏ. Những tác phẩm bình luận VHVH như Kim Dung giữa đời tôi (Vũ Đức Sao Biển)hay Lai rai chén rượu giang hồ (Huỳnh Ngọc Chiến) đã được tái bản nhiều lần với số lượng xuất bản rất khả quan. Khi mạng thông tin Internet được mở rộng, khá nhiều trang web chuyên về đề tài võ hiệp đã được thành lập. Điều đáng nói, nhữngngười điều hành – admin, hay những người quản trị – moderator của những trang web này phần lớn đều là thế hệ 7x trở lại. Trong số những trang web nổi tiếng về VHVH nước ta phải kể đến Tàng Kinh Cốc, Tàng Thư Viện, Nhạn Môn Quan, Lương Sơn Bạc, Việt Kiếm v.v… với số lượng thành viên đăng ký lên tới vài chục ngàn người.
Một điểm chú ý đối với thế giới truyện võ hiệp trên mạng, đó là những trang web chuyên về văn học võ hiệp đều phần lớn mang tính tự phát hoặc do một vài thành viên có tiềm lực tài chính cùng sự say mê lớn dành cho VHVH lập ra. Tuy vậy, khối lượng tác phẩm và những tài liệu về VHVH được sưu tầm, bảo tồn và chia sẻ ở những nơi đây là khá lớn dẫu rằng góc dành riêng cho VHVH Việt Nam còn thiếu vắng. Điểm qua những trang web và diễn đàn này, chúng ta có thể thấy nhu cầu đọc và viết truyện võ hiệp vẫn đang tồn tại như một cơn sóng ngầm đầy nội lực trải dài suốt bấy nhiêu năm và chỉ chờ cơ hội để bùng phát.
Ngoài việc trao đổi những tác phẩm VHVH, bàn luận và trao đổi kiến thức nhằm đưa ra những kiến giải khác nhau dành cho những tác phẩm, tác giả VHVH, các thành viên trên những trang mạng này còn có nhiều dự án nhằm đánh máy lại những tác phẩm VHVH hiếm hay dịch thuật những tác phẩm VHVH đáng chú ý. Cũng không thể không kể đến những phong trào sáng tác truyện võ hiệp Việt Nam được tổ chức khá rôm rả trên những trang web chuyên biệt này. Đáng chú ý nhất là cuộc thi viết truyện võ hiệp mang tên Kim bút của trang web Tàng Thư Viện đã thu hút được một lượng tác phẩm khá lớn. Rất nhiều tác phẩm võ hiệp của chính những thành viên thời @ đã được sáng tác và được chia sẻ trực tuyến online.
Tuy nhiên, có thể nói VHVH Việt vẫn đang chịu nhiều thiệt thòi. Để tìm ra những NXB in những tác phẩm VHVH Việt là điều không dễ. Những tờ báo chịu “mở lòng” với dòng văn học này cũng không có nhiều. Dẫu sao, thời gian vừa rồi, một trong những tín hiệu khá lạ, được cộng đồng VHVH trên mạng bàn tán xôn xao. Đó là việc truyện Tuyết đen, một tác phẩm mang đậm dấu ấn của VHVH của tác giả trẻ bút danh Giao Chi đã được đăng trên báo Mực Tím. Truyện kể về nàng đại tiểu thư võ đường Lưu gia, tên gọi Đồng Tử và tên tà giáo Vạn Độc Vương, tự là Tuyết đen. Ngay lập tức, tác phẩm đã được mệnh danh là: “truyện kiếm hiệp đầu tiên dành cho teen Việt”. Khi được đưa lên blog của tác giả, entry Tuyết đen tạo nên một sức hút lớn với 45 ngàn lượt truy cập chỉ sau vài tháng với hàng trăm bức tranh vẽ minh họa các nhân vật trong truyện được các độc giả vẽ dựa trên trí tưởng tượng của mình và gửi đến cho tác giả. Thành công bất ngờ của Tuyết đen đã khiến báo Mực tím đặt tác giả Giao Chi viết tiếp phần 2 của Tuyết đen và dự kiến phần tiếp nối này sẽ tiếp tục gây xáo trộn giang hồ như phần 1.
Mấy ai nhớ được lịch sử nước Pháp thời kỳ vua Louis XVI, nhưng hầu hết mọi người đều biết đến câu khẩu hiệu “Một người vì mọi người! Mọi người vì một người!” của những chàng Ngự lâm pháo thủ. Mấy ai nhớ được lịch sử nước Anh thời kỳ “đêm trường Trung Cổ”, nhưng mọi người đều biết đến những cái tên huyền thoại của vua trộm rừng xanh Robin Hood và chàng hiệp sĩ Ivanhoe. Không nhiều người hiểu rõ lịch sử Trung Quốc thời Tống – Nguyên – Minh – Thanh nhưng những hình tượng như Tiêu Phong, Quách Tĩnh, Dương Quá, Trương Vô Kỵ, Vi Tiểu Bảo v.v… đều đã ghi dấu ấn trong lòng biết bao thế hệ người đọc và trở thành những hình tượng văn học bất tử.
VHVH nếu được khai thác một cách khéo léo sẽ là một trong những công cụ quyền lực, có thể truyền bá được rộng khắp tinh thần dân tộc. VHVH nếu được sử dụng đúng cách sẽ nâng cao tình yêu lịch sử và là công cụ chuyển tải văn hóa đặc trưng của đất nước. Với Việt Nam, con đường phát triển của dòng văn học này đã mang quá nhiều thăng trầm. Tuy nhiên, một số lượng lớn người đọc vẫn đang chờ đợi những tác phẩm thực sự chất lượng, đánh dấu mốc cho dòng văn học này. Đây sẽ là thách thức, đồng thời cũng là một hướng đi đáng kể cho những nhà văn trẻ thử sức!
(Bài viết đã đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ)

Văn học kiếm hiệp lịch sử: Quyền hư cấu


Báo Văn Nghệ Trẻ phỏng vấn Hoàng Tùng

QUYỀN HƯ CẤU TRONG SÁNG TÁC VĂN HỌC LỊCH SỬ
Image
-         Có thể nói rằng trong  văn học sáng tác về đề tài lịch sử, tính hư cấu và tưởng tưởng giữ vai trò quan trọng. Là người dành nhiều sự quan tâm cho văn học về đề tài lịch sử, xin anh chia sẻ đôi điều?
Tôi nghĩ rằng không chỉ riêng văn học sáng tác về đề tài lịch sử, văn học nói chung cũng dựa trên nền tảng tính hư cấu và sự tưởng tượng.
Điểm khác biệt rõ nét giữa tính hư cấu và tưởng tượng trong sáng tác văn học lịch sử và văn học thông thường nằm ở sự giới hạn. Đối với văn học lịch sử, khi nhà văn hư cấu nên một vài sự việc bằng trí tưởng tượng của mình, những trang viết đó rất dễ bị coi là là “nhạy cảm”. “Nhạy cảm” ở đây có thể bị quy chụp một cách khá nặng nề: bôi đen hình tượng lịch sử, làm sai lạc lịch sử. Nguyên do từ đâu? Nhiều người cho rằng những khác biệt so với chính sử đều có thể bị coi là nhạy cảm.
Theo tôi đây là một quan điểm sai lầm.
Những tác phẩm văn học lịch sử để đời đều không thiếu những chi tiết “nhạy cảm”. Ở châu Á, hình tượng những nhân vật Tào Tháo, Khổng Minh, Lưu Bị, Quan Công v.v… trong Tiểu thuyết Tam quốc Diễn Nghĩa đều có nhiều chi tiết rất “nhạy cảm”. Nếu nhìn bằng con mắt khắt khe, người ta có thể quy cho tác giả tội tuyên truyền mê tín dị đoan vì nhân vật Khổng Minh có thể hô mưa gọi gió, có thể bấm độn, biết trước mọi sự việc, có thể dâng sao giải hạn v.v… Đó là chưa kể những hình tượng khác đều ít nhiều khác biệt so với chính sử. Tuy nhiên, chính sự khác biệt kết tinh từ trí tưởng tượng và hư cấu của tác giả mới tạo nên những hình tượng văn hoá mạnh mẽ.
Một trong những nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng là Alexandre Dumas với bộ ba trường thiên Ba người lính ngự lâm, Tử tước Bologne và Hai mươi năm sau tiếp cũng dựng lại hàng loạt những nhân vật lịch sử trọng yếu của châu Âu. Trong đó, những hình tượng nhân vật lịch sử như Giáo chủ Richelieu, Huân tước Buckingham, Hoàng đế Louis XIII, Hoàng hậu Anne v.v… đều là những phiên bản khác biệt, thậm chí có phần ngược hẳn so với những điều ghi chép lại trong chính sử. Liệu ta có nên quy kết tác giả là bôi nhọ nhân vật lịch sử?
Nếu như La Quán Trung hay Alexandre Dumas bị những điều “nhạy cảm” trì kéo, trí tưởng tượng không được bay bổng, tính hưu cấu của tác phẩm bị bóp nghẹt, e rằng ngày nay chúng ta chẳng có được Tam Quốc Diễn Nghĩa hay Ba người lính ngự lâm mà đọc…
-         Tuy nhiên ngay trong việc hư cấu, cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, văn học sáng tác về đề tài lịch sử nhà văn được toàn quyền hư cấu. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng nhà văn không được phép hư cấu vì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lệch lịch sử. Anh nghĩ gì về “quyền hư cấu” của nhà văn trong sáng tác về đề tài lịch sử?
Bây giờ chúng ta bàn đến “quyền hư cấu” của nhà văn, tôi thấy hơi buồn cười.
Tôi nghĩ rằng không nên có biên giới gì đối với tính hư cấu của tác phẩm văn học nói chung và văn học lịch sử nói riêng. Hãy để nhà văn toàn quyền bay bổng với trí tưởng tượng của mình mà tạo nên tác phẩm văn học hay. Bất cứ sự giới hạn nào đối với quyền hư cấu của nhà văn đều khiến nhà văn không thể phát huy tối đa khả năng sáng tác của mình.
Tôi cho rằng trí tưởng tượng phong phú là một điểm yếu của nhà văn Việt Nam. Tôi có thể tưởng tượng ra một ngày nào đó chúng ta sẽ có những tác phẩm lớn kiểu như “Cuốn theo chiều gió”, “Kiêu hãnh và định kiến”, “Những người khốn khổ” v.v… nhưng tôi rất khó hình dung ra một ngày nào đó chúng ta sẽ có những tác phẩm mang trí tưởng tuợng kỳ vĩ lấp lánh kiểu như Harry Potter, Chúa Nhẫn, Biên niên sử Narnia v.v…
Một điểm yếu liên quan đến sự hư cấu, ở đây cụ thể là hư cấu lại lịch sử trong những tác phẩm văn học lịch sử, đó là nhà văn nước ta đặt ra một rào chắn “tự kiểm duyệt” mình ghê quá. Nghĩa là viết ra điều gì cũng phải nhìn trước, ngó sau xem nó có động chạm đến ai, đến vấn đề gì có thể gây ảnh hưởng đến mình không.
Bây giờ chúng ta bàn đến “quyền hư cấu”, nghĩa là trước nay chúng ta vẫn cho rằng nhà văn được phép hưu cấu nhưng chỉ được hư cấu ở một giới hạn này, giới hạn kia mà thôi. Quan điểm đó chỉ kiến khả năng sáng tạo của nhà văn bị thui chột.
Tôi nghĩ rằng nhà văn lịch sử nên có quyền hưu cấu, quyền viết và quyền sáng tạo và nên mở rộng biên độ những quyền này một cách tối đa. Còn quyền phê bình, quyền cảm nhận là của độc giả.
-         Theo anh trong các sáng tác về đề tài lich sử sáng tạo của nhà văn đến đâu thì chấp nhập được?
Nên để nhà văn được sáng tạo tối đa. Alexandre Dumas có một câu nói nổi tiếng: “Lịch sử là bức tường còn tác phẩm của tôi là những bức tranh treo lên tường” khi bị các nhà phê bình chê rằng tác phẩm của ông có những điểm sai lạc với lịch sử.
Tôi nghĩ rằng tính sáng tạo chỉ là một phần trong bức tranh toàn cảnh của văn học lịch sử. Điều trọng yếu là người đọc chờ đợi những tác phẩm văn học lịch sử hay. Chữ “hay” ở đây là tổng hoà của nhiều yếu tố: “tính sáng tạo, chiều sâu tác phẩm, luận đề của tác phẩm. Với riêng tác phẩm văn học lịch sử, nó còn phải vẽ nên được không khí lịch sử và tạo thành được bài học lịch sử có thể đối chiếu với xã hội hiện tại”. 
Nói như Alexandre Dumas thì “Bức tường lịch sử” vốn chỉ khô cứng và một màu. Điều độc giả trông đợi ở các nhà văn lịch sử là vẽ nên những “bức tranh lịch sử” thật đẹp, (chứ không phải thật đúng đắn) trang trí cho “bức tường lịch sử” của nước nhà thêm phần lộng lẫy, khiến nhiều người quan tâm hơn đến lịch sử nước nhà, đó mới là điều quan trọng nhất. 
 -         Thực tế đã xảy ra những sự không nhất quán trong việc đánh giá, nhìn nhận một tác phẩm văn học sáng tác về đề tài lịch sử. Phải chăng khi đó trí tưởng tưởng của nhà văn đã xung đột với lịch sử, anh có nghĩ như vậy không?
Sự không nhất quán trong việc đánh giá, nhìn nhận một tác phẩm văn học lịch sử phụ thuộc nhiều vào quan điểm và nền tảng văn hoá của bạn đọc hay nhà phê bình. Khá nhiều tác phẩm nghệ thuật lịch sử gây nhiều tranh cãi. Bộ phim Biệt đội Khốn nạn – Inglorious Bastardscủa đạo diễn danh tiếng Quentine Tarentino có trường đoạn Biệt đội của Mỹ đột nhập rạp chiếu phim và bắn nát mặt của Adolf Hitler. Hoàn toàn sai sự thật nhưng tạo nên hứng thú cao độ.
Trong lĩnh vực văn học, tác phẩm: “Cám dỗ cuối cùng của Chúa – The Last Temptation of Christ” của nhà văn Nikos Kazantzakis đã từng làm văn đàn thế giới nổi sóng. Nguyên do bởi tác phẩm nói đến trường đoạn trước khi Chúa Jesus bị đóng đinh, quỷ Satan hiện lên và cám dỗ Chúa bằng những vật chất, nhục dục của cuộc sống thường nhật trong đó có viễn cảnh Chúa Jesus ân ái với cô gái điếm Maria Magdalena. Nhiều nhà phê bình kêu gào, phản đối. Cuốn sách bị đốt, bị cấm. Nhưng đó là tác phẩm rất sáng tạo, lạ lùng và hoàn toàn có giá trị lâu dài.
Ngay bây giờ, các bạn có thể ra rạp chiếu phim và xem bộ phim: “Abraham Lincoln: Người săn ma cà rồng – Abraham Lincoln: Vampire Hunter” (Bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Seth Grahame-Smith). Abraham Lincoln ở đây chính là vị tổng thống Mỹ, người được bình chọn là vị tổng thống đáng mến nhất trong lịch sử nước Mỹ. Các nhà phê bình kinh viện có thể chau mày vì sự nhố nhăng: tại sao một vị tổng thống lại có thể là một kẻ săn ma cà rồng? Không vấn đề! Những chủ đề phá cách như vậy có lẽ sẽ đem hình ảnh Tổng thống Lincoln (và đằng sau là lịch sử – văn hoá Mỹ) đến với rất nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó chỉ có tốt cho văn hoá Mỹ mà thôi.
Hãy nói rằng tôi là một kẻ phù phiếm nhưng tôi mong muốn chúng ta cũng có những hình tượng nhân vật lịch sử hay dựa lịch sử như vậy.
-         Có không nguy cơ văn học chỉ là một dạng minh họa cho lịch sử?
Có! Đó là khi người ta phụ thuộc quá nhiều vào “sự thật” được viết trong những trang sách sử. Nên nhớ, kể cả lịch sử cũng có “tín sử” và “nguỵ sử”. Và kể cả những trang sử được coi là “tín sử” đôi khi lại là “nguỵ sử”.
Các nhà phê bình thường dựa vào một nguồn lịch sử nào đó. Điều đáng buồn, đôi khi nguồn tại liệu đó cũng chẳng mấy đáng tin. Nhà phê bình Trần Mạnh Hảo từng phê nhà văn Sương Nguyệt Minh cùng tác phẩm Dị hương rằng: “Nguyễn Ánh – vua Gia Long là một nhân vật lịch sử có thật. Đệ tam cung Lê Ngọc Bình là một nhân vật lịch sử có thật, sao tác giả “Dị Hương” lại bịa đặt một cách vô lối để bôi bẩn họ đến mức ghê tởm thế” nguyên do bởi vì “Trong sử, vua Gia Long là vị vua không hiếu sắc, càng không hề hoang dâm vô độ như “Dị hương” bịa chuyện”.
Dĩ nhiên, đây là một cách phê bình khá kỳ quái và đầy gượng ép.
Nên nhớ sử thần nhà Lê sẽ chép lại những điều hay ho của nhà Lê và chê bai triều Hồ cũng như triều Mạc. Những sử gia nhà Mạc sẽ chê bai sự thối nát của nhà Lê. Sử gia nhà Nguyễn sẽ coi triều Tây Sơn là “nguỵ Tây Sơn” và đã có một thời những nhà viết sử nước ta đánh giá rất tiêu cực về nhà Nguyễn. Đó là điều hết sức bình thường. 
-         Nhà văn và nhà viết sử giống và khác nhau ở điểm nào?
Nhà văn viết chuyên về lịch sử có một vài điểm khác biệt nhỏ so với những nhà văn viết đề tài khác:1.Những nhà văn viết sử có tác phong nghiên cứu nhiều hơn. Bởi vì bất cứ tác phẩm lịch sử viết về một thời đại nào đó trong quá khứ, nhà văn phải nghiên cứu để hiểu biết đủ sâu về thời kỳ đó trước khi có thể đặt bút sáng tác. 2.Những nhà văn viết sử cần phải có một phông văn hoá đủ rộng, trong đó quan trọng bậc nhất ngôn ngữ. Cần phải có một vốn ngôn ngữ đủ nhiều mới có thể chuyển tải được không khí lịch sử trên trang giấy.
Còn lại, tư duy và kỹ năng sáng tác văn học lịch sử không khác nhiều so với tư duy sáng tác văn học nói chung.
-         Như vậy việc tiếp nhận một tác phẩm văn học viết về lịch sử, người đọc có cần thiết lập một “cơ chế đọc” nào để tránh việc suy diễn, áp đặt, quy chụp như đã từng diễn ra trong thực tế?
Việc tiếp nhận một tác phẩm văn học lịch sử cần phải có những cái đầu đánh giá thực sự thoáng đãng và khoáng đạt hơn. Tôi cho rằng các nhà phê bình thường cho mình cái quyền làm tấm lưới cản những “rác rưởi văn học” trước khi chúng đến với độc giả. Trong quá trình gạn lọc đó, họ có thể nhầm rất nhiều viên kim cương văn học thành rác rưởi văn học.
Sử ký Tư Mã Thiên bị coi là cuốn sách nguỵ sử, phỉ báng tiền nhân. Truyện Kiều từng bị coi là dâm thư. Tác giả Kim Dung khi viết “Anh hùng xạ điêu” lập tức bị chính quyền Đài Loan cấm vì Tưởng Giới Thạch e ngại tinh thần dân tộc quá mạnh trong tác phẩm. Sau này, khi ông viết “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, tác phẩm của ông bị chính quyền Trung Quốc cấm lưu hành vì “ám chỉ việc tôn sùng cá nhân lãnh đạo”. Đến giờ, ông tác phẩm của ông mới được nhìn nhận lại một cách xác đáng và Kim Dung trở thành một trong 10 nhà văn xuất chúng nhất Trung Quốc trong thế kỷ 20.
 -         Khó nhất của việc sáng tác văn học về đề tài lịch sử là gì?
Tôi cho rằng không nhiều cái khó. Mọi người cho rằng giới trẻ thờ ơ với lịch sử. Tôi cho rằng giới trẻ thờ ơ với thứ lịch sử khô cứng và một chiều. Báo chí nêu ra sự việc sách lịch sử viết Hai Bà Trưng đánh “giặc” nhưng không biết rằng “giặc” đó là giặc nào. Sách giáo khoa viết như thế thì làm sao đòi hỏi các em yêu thích thứ lịch sử hời hợt đó được?
Không có lý do gì những người bạn trẻ yêu thích Tam Quốc Diễn Nghĩa, yêu thích Thuỷ Hử, yêu thích những tác phẩm của Kim Dung, yêu thích Ba người lính ngự lâm, yêu thích Robin Hood lại quay lưng với những tác phẩm văn học lịch sử của chính đất nước mình.
Theo tôi, vấn đề chính yếu là nội lực sáng tác của những nhà văn viết về lịch sử của nước ta còn yếu. Không tạo nên thành được một làn sóng viết về lịch sử, đọc về lịch sử để khuấy động xã hội, đưa người đọc đến gần hơn với những trang văn học lịch sử.
-         Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện